NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG BÁN VÀNG-Sách kinh doanh vàng của Jonathan Spall - AKHSP

loading...

 Trong phần lớn những năm 1990, vàng trên thị trường xuống giá liên tục. Người ta xem đó là một khoản đầu tư không hợp thời khi vào thời điểm đó người ta đang ưa chuộng một kỷ nguyên đổi mới kỹ thuật tài chính và bùng nổ Internet. 


Như đã đề cập ở Chương 3, liên quan tới các hoạt động của nhà sản xuất vàng, trong nhiều trường hợp, họ sẽ bán lượng vàng mà họ chưa khai thác để bảo đảm tương lai hoạt động của mình và nhiều nhà đầu cơ đang bán khống vàng theo cách hiểu là chiến thuật “carry trade” (chiến thuật mà trong đó nhà đầu tư bán một ngoại tệ cụ thể có tỉ số lãi suất cho vay tương đối thấp và dùng số tiền thu được để mua một loại ngoại tệ khác có tỉ số lãi suất tương đối cao). Nhờ vào chiến thuật này về bản chất các quỹ đầu tư hợp tác và những quỹ khác sẽ bán vàng, vay lại với lãi suất vàng thấp, và rồi đầu tư đô-la từ các thương vụ của mình vào các công cụ mang lại lợi nhuận cao (hoặc thậm chí là vào trái phiếu kho bạc). Việc vàng xuống giá thấp hơn có nghĩa là không chỉ những nhà đầu cơ thu được lợi nhuận mà họ còn đang hưởng đồng vốn lên giá khi giá của vàng vẫn giảm.

Nhiều ngân hàng trung ương không muốn ngồi nhìn vàng rớt giá và tài sản quốc gia bay hơi. Đến cuối thập kỷ này, chúng tôi chứng kiến người Bỉ, người Hà Lan và người Canada cùng với các quốc gia khác bán vàng. Và thời kỳ đen tối đã tới khi trong suốt năm 1999, một số quốc gia được cho là thích vàng đã tìm cách làm vơi bớt kho dự trữ của mình.


Australia đã bán, rồi Anh và Thụy Sĩ cũng tuyên bố ý định thu hẹp xuống gần một nửa kho dự trữ của mình; Thụy Sĩ đã bán bớt 1.300 tấn so với Anh là 395 tấn.


Tới một chừng mực nhất định, thị trường đã quen với ý niệm các ngân hàng trung ương bán vàng. Các nhà đầu tư không quan tâm đến quan điểm này, song nó được chấp nhận. Tuy nhiên, khi tin tức về vụ bán vàng của Australia bị vỡ lở, thì thị trường quốc tế đã hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Các công ty khai mỏ không còn sôi nổi nữa và họ chỉ ra rằng số vàng chưa được khai thác thuộc về họ hơn là về chính phủ. Tuyên bố này đã khiến giá vàng càng hạ xuống sâu hơn.


Tương tự, giả sử Thụy Sĩ có ham muốn đối với vàng, đó cũng là một phần văn hóa của họ như sôcôla và ngành ngân hàng vậy. Tuy nhiên, không phải là trong trường hợp này. Theo một cách tương tự, London được xem là ngôi nhà của thị trường vàng, với phần lớn giao dịch trên thế giới liên quan đến thứ kim loại này được thực hiện ở London, nơi giá vàng tiêu chuẩn (cố định giá) được xác định, và hơn nữa, đây cũng là mái nhà của nhiều nhà làm giá lớn nhất toàn cầu và là nơi các quy định xác định tiêu chuẩn của ngành này được thiết lập như “thanh vàng theo tiêu chuẩn của London Good Delivery”. Anh là nước trữ vàng trong một thời gian dài. Theo cách tương tự như Thụy Sĩ, thị trường cũng quá thỏa mãn rồi, và Chính phủ Anh, thực tế là bên sở hữu số vàng dự trữ của Anh (không giống như ở phần lớn nước khác, vàng thuộc sở hữu của ngân hàng trung ương), thực ra lại là bên bán vàng và thích giữ đồng euro hơn.

Những hành động không mong đợi của ba nước trên đã tạo cho nhiều nhà đầu tư ấn tượng rằng tất cả các ngân hàng trung ương đang xếp hàng bán vàng, rằng đó là câu hỏi “khi nào” người giữ vàng bán vàng hơn là “nếu”. Việc ba nước được xem là “bằng hữu” với vàng đều đang bán vàng đã làm gia tăng mối hoài nghi rằng triển vọng này xem ra ảm đạm đến mức các nước đang nhảy cóc qua nhau trong việc sẵn sàng bán vàng.
Vàng hạ giá xuống dưới các mức thấp trong 19 năm và trong suốt năm 1999, xuống còn 252 đô-la, khi một số công ty khai mỏ cáo buộc các ngân hàng trung ương không chỉ làm biến dạng thị trường vàng do bán vàng mà còn giúp các quỹ đầu tư hợp tác, bên mượn vàng để đầu tư cho các vụ giao dịch
- đẩy mức giá xuống thấp hơn. Câu trả lời có được từ khu vực này là đơn giản và đúng vấn đề; họ cho rằng đó là trách nhiện của những nhà sản xuất áp dụng nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, rằng “đẩy mạnh bán” là kẻ phá hoại giá trị thật sự. Một phúc đáp mà chúng tôi nghe được từ một quan chức ngân hàng trung ương cấp cao thật đáng nhớ : “Ít nhất, chúng ta đang bán lượng vàng mà chúng ta có; chứ không phải là số lượng sẽ đào ra được trong 10 năm tới”.

Vào ngày 26/9/1999, tình hình đã thay đổi nhanh chóng.

THỎA THUẬN VÀNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CHÂU ÂU (EcbGA)

Đề mục “Thỏa thuận vàng của ngân hàng trung ương châu Âu” có thể trông giống như một hỗn hợp kỳ lạ giữa chữ viết hoa và chữ viết thường, song thỏa thuận này bình thường được gọi là EcbGA, mặc dù đôi khi còn gọi là WAG (Thỏa thuận Washington về vàng). Những chữ lộn xộn này sẽ làm nổi bật phạm vi thỏa thuận và cũng làm rõ rằng đây không đơn giản là một tuyên bố của Ngân hàng trung ương châu Âu mà chỉ nói đến một số các ngân hàng trung ương châu Âu liên quan.

Thứ Hai, ngày 27/9/1999, tôi đang làm việc ở Sydney. Do sự chênh lệch thời gian, hôm đó ở Washington là ngày Chủ nhật và một ngày trước đó Wim Duisenberg (Chủ tịch Ngân hàng trung ương châu Âu lúc bấy giờ) đưa ra tuyên bố đại diện cho 15 ngân hàng trung ương .

15 ngân hàng này là các ngân hàng trung ương Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển, và ECB, cộng với 11 nước khác trong liên minh châu Âu là Đức, Pháp, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Áo, Bỉ, Luxembourg, Phần Lan và Ailen.

EcbGA - DẤU HIỆU I
1. Vàng sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng của các quỹ dự trữ tiền tệ toàn cầu.
2. Những thể chế trên sẽ không tham gia thị trường với tư cách là bên bán, trừ những vụ bán đã được quyết định rồi.
3. Các vụ bán vàng đã quyết định rồi sẽ đạt được thông qua một chương trình bán hàng đồng bộ trong thời gian 5 năm. Doanh số bán hàng năm sẽ không vượt quá 400 tấn và tổng mức doanh số trong giDaowinlođado10ạ2+nEbonokàtạiyhttpss:/ẽ/ChuknghKhôoannPhgatLvoc.cưomợ/ebtookquá 2.000 tấn.
4. Các bên tham gia ký kết thỏa thuận này nhất trí không kéo dài các khoản cho thuê vàng của mình và việc sử dụng các quyền chọn và hợp đồng vàng tương lai trong thời gian này.
5. Thỏa thuận này sẽ được xem xét lại sau 5 năm.
Phản ứng ban đầu về tuyên bố này là một vấn đề cần lưu tâm. Mọi người đều biết điều đó là quan trọng, song giá vàng nên như thế nào? Giá chốt trong đêm thứ Sáu ở New York vào khoảng 267 đô-la, và từ đó, nó bắt đầu chậm chạp leo lên. Bây giờ thì có thể dường như là kỳ lạ, song sự quan tâm của thị trường ban đầu phần nhiều tập trung vào tác động đối với thị trường cho vay vàng, nơi đã có những quan ngại về sự cố Y2K cộng với tính thanh khoản khi bước sang năm mới và thiên niên kỷ mới. Tôi gọi điện cho tất cả khách hàng trong danh bạ của mình và đánh thức mọi người từ châu Âu đến Mỹ dậy. Có một vài người muốn mua song phần lớn mọi người muốn giữ “liên lạc”.

Các phương tiện truyền thông, trái lại, không có sự dè dặt như vậy. Thay vào đó, báo chí tràn ngập những bài báo loan tin về việc các ngân hàng trung ương sẽ siết chặt lại, mặc dù việc tổng số 2.000 tấn vàng sẽ được bán trong 5 năm là hơn gấp đôi doanh số từ các nước này bán trong thời gian 10 năm trước đó. Kết quả là vàng đã tăng lên 338 đô-la trong vài ngày sau đó – tăng khoảng 26%. Lãi suất vàng cũng tăng lên, lãi suất một tháng đạt mức cao 10% so với 4% chỉ vài ngày trước đó.

Khi giá loại kim loại này tăng, các công ty khai thác vàng bắt đầu đưa ra những tuyên bố về quyền sở hữu của mình. Một trong những công ty đầu tiên tuyên bố như vậy là Ashanti Goldfield của Ghana. Công ty này thông báo rằng họ đã cơ cấu lại 80% sổ sách đầu tư (hedge-book) của mình, chuyển “tình trạng bán giao sau sang những quyền chọn tổng hợp”. Về mặt kỹ thuật, việc cơ cấu lại sẽ khiến các công ty này mua quyền chọn mua với thỏa thuận và thời hạn tương đương như những vụ bán hiện thời. Rõ ràng, việc này xem ra là động thái khôn ngoan cho tới ngày 5/10/1999 khi họ tuyên bố rằng sổ sách đầu tư có giá trị âm khoảng 450 triệu đô-la. Sau đó, Ashanti tuyên bố họ đã ký một hợp đồng hoãn nợ với 16 đối tác ngân hàng của mình. Những ngân hàng này nhất trí không yêu cầu có thêm thông báo bổ sung các khoản báo thiếu tiền ký quỹ (margin call). Công ty rốt cuộc bị AngloGold thôn tính vào tháng 4/2004 để lập ra công ty AngloGold Ashanti.

Tương tự, Công ty Cambior Inc của Canada thông báo họ đang thương thảo với các ngân hàng “để xác định… cách thức và sự phối hợp mà ở đó các trách nhiệm giao vàng của Cambior sẽ được đáp ứng”.
Việc giá vàng có thể phục hồi song các công ty khai thác vàng có thể vẫn mất tiền không còn là điều từng xảy ra với các nhà đầu tư nữa mà đã thực sự xảy ra.

Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau đó, phần lớn đã có những kết quả - bất chấp những dự báo ảm đạm khi thế giới sắp đến gần đêm giao thừa năm 1999 trong bối cảnh giá vàng giao ngay quay trở lại mốc 274 đô-la và các khoản ký quỹ vàng một tháng chỉ phải trả 1,5%.

Các công ty sản xuất

Trong khi các chính phủ và cơ quan hữu quan có thể ký thỏa thuận điều tiết nguồn cung, việc chậm trễ tương tự không thể kéo dài đối với các cá nhân hoặc các công ty điển hình. Tuy nhiên, đối với các công ty, sẽ có những cáo buộc về sự bội tín và lũng đoạn, với khả năng tiếp theo là thiệt hại to lớn từ các vụ kiện cáo. Vì vậy, không nhiều cơ hội để họ có thể phản ứng bình thường, như một tập đoàn, đối với tuyên bố của các ngân hàng trung ương.

Tuy nhiên, vào đầu năm 2000, có một số thông cáo báo chí do các công ty sản xuất đơn lẻ công bố. Tất cả về cơ bản đều có hàm ý là họ sẽ quay lại nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro. Vào tháng 2/2000, Placer Dome (sau này là công ty khai thác vàng lớn thứ ba ở Bắc Mỹ) tuyên bố: “Kể từ ngày này, công ty đã ngừng bổ sung bất kỳ tình trạng đặt rào mới nào” và “Chúng tôi tin rằng giá vàng sẽ tăng cao hơn. Thỏa thuận của các ngân hàng trung ương nhằm hạn chế việc bán ra và cho vay là một bước đi quan trọng hướng tới cải thiện tâm lý thị trường song ngành này cần phải làm phần việc của mình”.

Cuối cùng, đó là tuyên bố chính thức của 15 ngân hàng trung ương và tác động của nó đối với các hoạt động của các công ty khai thác mỏ, đẩy vàng tăng giá tới mức cao ở mọi thời đại. Đơn giản là nó xóa bỏ được sự không chắc chắn và cho phép tạo ra tâm lý tích cực.

EcbGA - DẤU HIỆU II
Thỏa thuận ban đầu đó có tầm ảnh hưởng đến nỗi ngay lập tức xuất hiện những lời đồn đoán rằng nó sẽ bị bãi bỏ. Tiếp sau những lời đồn đoán này nhanh chóng xuất hiện phỏng đoán về khả năng thỏa thuận này sẽ được làm mới. Cả hai câu chuyện này được đăng tải rầm rộ trên các tờ báo tài chính nhưng theo quan điểm của tôi, chưa từng có câu hỏi nào rằng các ngân hàng trung ương có theo dõi chặt chẽ những chỉ trích mà bản thân họ tạo ra hay không. Bất kỳ ý kiến nào cho rằng họ đang “bẻ cong các quy tắc” sẽ rõ ràng tác động đến danh tiếng của các ngân hàng trung ương trong nhiều năm sau đó và khiến cho họ gặp khó khăn hơn trên các thị trường mà ở đó điều quan trọng là những công bố chính thức của họ được xem là giá trị danh nghĩa (ví dụ như ấn định lãi suất).
Những tin đồn bị xua tan sau đó sáu tháng, khi vào ngày 8/3/2004 những tuyên bố sau xuất hiện trên trang web của ECB (www.ecb.int):
Để làm rõ ý định liên quan tới số vàng nắm giữ, những cơ quan ký tên dưới đây đã đưa ra tuyên bố sau:
1. Vàng sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng của các quỹ dự trữ tiền tệ toàn cầu.
2. Doanh số bán vàng đã được cũng như chưa được các cơ quan ký tên dưới đây quyết định sẽ được thực hiện thông qua một chương trình bán ra đồng bộ trong thời gian 5 năm, bắt đầu từ ngày 27/9/2004, chỉ sau khi kết thúc tuyên bố trước đó. Doanh số bán ra hàng năm sẽ không vượt quá 500 tấn và tổng lượng bán ra trong thời kỳ này sẽ không vượt quá 2.500 tấn.

3. Trong thời gian này, các bên ký kết thỏa thuận nhất trí toàn bộ lượng vàng cho thuê và tổng lượng sử dụng hợp của đồng tương lai và quyền chọn về vàng sẽ không vượt quá các mức thịnh hành vào ngày ký thỏa thuận trước đó.

4. Thỏa thuận này sẽ được xem xét lại sau 5 năm.

Thời gian này, các bên tham gia ký kết là Ngân hàng trung ương châu Âu, Banco de Espana (Tây Ban Nha), Ngân hàng Hy Lạp, Banque de France (Pháp), Cơ quan Ngân hàng trung ương và dịch vụ tài chính Ailen, De Nederlandsche Bank (Hà Lan), Oesterreichisch (Áo), Schweitzerische Nationalbank (Thụy Sĩ), Banca d’Italia (Italia), Banco de Portugal (Bồ Đào Nha), Banque Nationale de Belgique (Bỉ), Deutsche Bundesbank (Đức), Suomen Pankki (Phần Lan), và Seriges Riksbank (Thụy Điển).

Vào thời gian ký kết, các cơ quan này đã tổng hợp lượng vàng nắm giữ lên tới xấp xỉ 13.900 tấn, tương đương với khoảng 40% lượng vàng khu vực chính thức nắm giữ.

Kể từ khi tuyên bố trên được đưa ra, ngoài những bên ký kết ban đầu còn có sự tham gia của các ngân hàng trung ương của Slovenia, Manta, và Ship. Ngân hàng trung ương Manta và Ship là những bên ký kết gần đây nhất, vào ngày 25/1/2008.

DẤU HIỆU I VỚI DẤU HIỆU II

Thay đổi đáng kể nhất là lượng bán ra trong 5 năm đã tăng từ 2.000 tấn lên tới 2.500 tấn, mức tăng được phép là 100 tấn/năm. Số lượng này được các ngân hàng trung ương đánh giá là không gây bất kỳ gián đoạn thị trường nào và được đưa ra sau buổi tham vấn không chính thức với các ngân hàng giao dịch vàng lớn nhất. Nó vẫn được coi là số lượng tối đa có thể được bán trong bất kỳ năm hạn ngạch (ngày 27/9-26/9) nào hơn là một mục tiêu. Một điều bất thành văn trong thỏa thuận này là EcbGA sẽ mang lại sự ổn định cho thị trường vàng. Quả thật, tôi biết mọi người vẫn còn tranh luận, ngay từ lúc đầu tiên và sau đó, về nguyên lý thứ nhất “Vàng sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng của các quỹ dự trữ tiền tệ toàn cầu”; theo nhiều cách, đó là một nhận xét kỳ quặc từ các cơ quan đang xúc tiến việc bán ra song vẫn quan trọng vì là thông điệp giúp mang lại tâm lý ổn định.
Trong khi cả hai thỏa thuận này ban đầu được 15 nước ký, trong Dấu hiệu II, Hy Lạp tiếp quản vị trí của Ngân hàng Anh. Lý do cơ bản mà Ngân hàng Anh không tham gia là “Chính phủ Anh không có kế hoạch bán số lượng vàng trong kho dự trữ của mình và vì thế, sẽ không tham gia Thỏa thuận về vàng mới do các Ngân hàng Trung ương châu Âu thông báo ngày hôm nay.

Chính phủ vẫn cam kết chắc chắn về tính minh bạch và đảm bảo sự toàn vẹn của thị trường vàng. Do đó, sẽ có một tuyên bố nếu chính sách của Anh nếu có những thay đổi số lượng vàng bán ra trong tương lai”.

Tất cả đều lôgíc hoàn hảo trừ những người hoài nghi chỉ ra rằng một số bên tham gia ký kết khác cũng rất không muốn bán vàng vì họ có đối trọng nhỏ, cụ thể là Ailen (5,5 tấn) và Luxembourg (2,3 tấn). Tuy nhiên, những quan ngại này không được quan tâm.

EcbGA – DẤU HIỆU III?
Nếu các ngân hàng trung ương châu Âu có xu hướng giữ vững thời gian đã định của mình thì chúng ta nên biết đến tháng 3/2009, liệu có khả năng có sự gia hạn thêm 5 năm nữa hay không. Vào đầu tháng 3/2008, một số ngân hàng trung ương đã hỏi ý kiến tôi về khả năng cần phải có một thỏa thuận khác hay không. Quan điểm của tôi là những cơ quan này, cùng với tất cả chúng ta, đều không thích bị hạn chế và sẽ rất vui sướng khi được tự do hành động. Vì thế nên sở thích của họ sẽ chỉ đơn thuần là lưu ý rằng vàng gần đây đã đạt đến các mức cao danh nghĩa của mọi thời đại và vì vậy, không cần có thêm một thỏa thuận nữa. Họ có thể cũng giải thích lý do cơ bản cho thỏa thuận ban đầu này là nhằm đem lại sự ổn định và chắc chắn cho thị trường bị vây quanh bởi tin đồn và sự bi quan – ở đó, hành động ban đầu của họ đã hoàn thành mục tiêu của thỏa thuận một cách cực tốt.
Tuy nhiên, câu trả lời của tôi với các ngân hàng trung ương: vàng là thị trường hay bị tâm lý dẫn dắt. Vì vậy, trong khi thị trường hiện nay có thể xóa bỏ sự thiếu vắng của EcbGA Dấu hiệu III, không có gì đảm bảo rằng điều tương tự sẽ đúng vào một thời gian sau đó. Vì vậy, qua việc thị trường thích sự ổn định, người ta vẫn thích nếu thỏa thuận đó sẽ được làm mới trong một thời gian nữa. Việc làm mới sẽ đặc biệt quan trọng nếu IMF thành công trong việc tìm kiếm cách bán vàng.

IMF VÀ VÀNG

Theo hiến chương của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tổ chức này được phép nắm giữ hoặc bán vàng.
Sẽ không có cơ sở trung gian như đối với phần lớn các cơ quan chính thức, vốn có thể ít nhất thu lợi qua việc cho vay vàng của mình. Vì vậy, vàng chỉ là bảng cân đối kế toán của tổ chức này và có rất ít mục đích.

IMF trước đây đã bán vàng, thông qua một loạt các cuộc đấu giá thành công trong suốt những năm 1970. Những cuộc thảo luận gần đây lại thực sự bắt đầu một cách nghiêm chỉnh trong cuối những năm 1990, khi Thủ tướng Anh lúc đó là Tony Blair gợi ý rằng IMF bán vàng là nhằm hỗ trợ Các nước nghèo nợ nần chồng chất (HIPC). Trong khi việc này giành được một số ủng hộ, cũng có nhiều chỉ trích gay gắt. Những chỉ trích nói chung là:

1. Đó không phải là vàng của IMF bán ra như họ mong muốn; thay vào đó, vàng lại thuộc về các nước ban đầu đóng góp cho họ. Vì vậy, nếu IMF không sử dụng vàng thêm, tổ chức này đơn giản nên trao lại cho các nước đóng góp ban đầu.

2. IMF là một tổ chức không hiệu quả và quan liêu, và trước hết nó nên có nguồn tài chính riêng một cách hợp lệ trước khi có hành động hào phóng đó.

3. Mặc dù nghe thì rất ấn tượng, nhiều quốc gia châu Phi có ngành khai mỏ cũng lên án những đề xuất này. Họ viện dẫn lượng vàng bán ra tăng làm hủy hoại chính những quốc gia này và coi việc hủy bỏ đề xuất đó là giúp đỡ họ.

Không có gì ngạc nhiên, ý tưởng trên đã bị gạt đi, mặc dù có một loạt “các thủ thuật kế toán” độc hữu cho phép IMF định giá vàng theo các mức giá thị trường. IMF đưa ra cách tính toán này trên trang web của mình: “Từ tháng 12/1999 đến tháng 4/2000, những giao dịch riêng rẽ nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau liên quan tới tổng cộng 12,9 triệu ounce vàng được thực hiện giữa IMF và hai nước thành viên (Brasil và Mexico) có trách nhiệm tài chính với IMF. Trong bước đầu tiên, IMF bán vàng cho thành viên theo giá thị trường thịnh hành, và lợi nhuận được đưa vào một quỹ đặc biệt được đầu tư đem lại lợi ích cho Sáng kiến HIPC. Trong bước thứ hai, IMF ngay lập tức chấp nhận quay trở lại, theo mức giá thị trường tương đương, số lượng vàng tương tự từ nước thành viên phải thanh toán theo các nghĩa vụ tài chính của thành viên đó. Hiệu quả cuối cùng từ những giao dịch này là không làm thay đổi sự cân bằng việc nắm giữ vàng của IMF”. (http://www.imf.org/external/np/exr/facts/gold.htm).

Đối với thị trường, tình hình vẫn không thay đổi cho tới tháng 1/2007, khi xuất hiện báo cáo của “những người xuất chúng” về số lượng vàng bán ra. Thời gian này, rõ ràng IMF đã tìm cách chặn trước việc chỉ trích mà họ đã gặp phải trước đó. Hơn thế nữa, mục tiêu giúp HIPC đã gạt bỏ việc chấp thuận bán vàng để giải quyết các nhu cầu về tài chính của IMF.

Báo cáo này đánh dấu một sự khởi đầu chính từ “cuộc thăm dò” chính trị mà chúng ta đã thấy trước đó. Lần này, những nỗ lực được đưa ra là nhằm giải quyết phần lớn những chỉ trích có thể nhằm vào IMF. Và điều quan trọng là những người thực sự đề tên họ vào bản báo cáo là những người tầm cỡ đủ để xua tan phần lớn nghi ngờ rằng liệu đây có phải là một đề xuất nghiêm túc.
Trước hết, ủy ban này bao gồm Tito Mboweni, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Nam Phi. Nam Phi là nước chỉ trích mạnh mẽ những đề xuất ban đầu, khoảng 10 năm trước, đề nghị IMF bán vàng, lập luận rằng điều này trên thực tế sẽ làm tổn hại đến các nước nghèo nợ nần chồng chất được đề nghị giúp đỡ. Vào những dịp sau đó, Nam Phi đã dịu bớt sự chỉ trích của mình, và giờ đây chắc chắn đứng về bên bán. Quả thực, vị thống đốc này đã từ bỏ lập trường của mình tại một cuộc họp báo để nhấn mạnh rằng Nam Phi là một phần của tổ chức và rằng ủy ban “đã rất cẩn thận khi cố gắng đưa ra những đề xuất không tạo ra những mối nguy hiểm gây bất ổn trên thị trường vàng”. 
Ngoài ra, xuất hiện trong ủy ban “Nhóm những người xuất chúng” còn có Jean-Claude Trichet. Với tư cách là Chủ tịch ECB, ông rõ ràng có khả năng siết chặt hạn ngạch theo EcbGA. Điều này sẽ cho phép IMF, và các ngân hàng trung ương, lập luận rằng doanh số bán ra không làm gia tăng các kỳ vọng của thị trường về nguồn cung, hàm ý rằng hạn ngạch của Đức được đưa ra dưới thời của chủ tịch Bundesbank Ernst Welteke (và có vẻ như người kế nhiệm ông là Axel Weber cũng không yêu cầu gì khác) là để dành cho IMF. Trên thực tế, nếu việc phê chuẩn nhanh chóng được đưa ra, EcbGA Dấu hiệu II sẽ gần như tác động đến mức giới hạn tổng thể là 2.500 tấn.
Quả thực, họ hoàn toàn đúng - trừ việc thị trường tăng trưởng vốn chỉ quen với ý kiến cho rằng sẽ có sự sụt giảm ghê gớm do việc Đức chần chừ bán ra (một sự tranh chấp giữa ngân hàng trung ương và chính phủ trong việc khoản tiền thu về sẽ được trao cho những ai). “Phiếu ghi nợ” cho đến lúc bấy giờ ở mức tối đa 500 tấn/năm trong giai đoạn 2004-2005, giảm hơn 100 tấn trong giai đoạn 2005-2006, và giảm một lượng nhỏ xấp xỉ 13 tấn trong giai đoạn 2006-2007. Trong khi các bên tham gia ký kết không cho biết hạn ngạch của mỗi nước này trên thực tế là bao nhiêu, xuất hiện “sự phỏng đoán” từ thị trường rằng các ngân hàng trung ương khác sẵn sàng tăng cường lượng bán ra của mình, kết quả là năm cuối cùng của thỏa thuận (ngày 27/9/2008 đến ngày 26/9/2009) sẽ ở mức thấp hơn 500 tấn do Đức không bán vàng ra. Để lấp chỗ trống, Thụy Sĩ là nước đầu tiên tăng cường lượng bán ra của mình và giờ đây dường như IMF cũng đang xem xét tham gia.

Nếu tình trạng giao dịch của thị trường vàng có thể duy trì một cách tích cực và nói chung có tính khuyến khích, thì các bên giao dịch có lẽ sẽ bỏ qua điều này nếu lượng bán ra được thực hiện một cách cảm tính.

Thật thú vị, các thống đốc của Cơ quan Tiền tệ Arap Saudi và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cũng có mặt trong ủy ban này. Những nước này được các nhà phân tích nhiều lần đánh giá là hai tổ chức có thể mua vàng. Tầm quan trọng của việc này có thể được bàn luận theo hai khía cạnh: đầu tiên, thuật ngữ việc bán ngoài thị trường đã được nhất trí rồi, và rằng sự hiện diện của hai quý ông lịch lãm này là sự thừa nhận ngầm hiểu.

Hai là, chúng ta trước đây từng nghe IMF tuyên bố những nỗ lực tìm kiếm người mua một phần vàng của họ đã được chứng minh là không thể. Nếu Arap Saudi hay Trung Quốc mua một lượng vàng lớn, có lẽ khái niệm về việc bán trực tiếp cho một ngân hàng trung ương có thể lại nổi lên. Việc xuất hiện khả năng rằng bất kỳ việc bán vàng nào tuân theo EcbGA đều có xu hướng làm giảm khả năng kinh doanh ngoài thị trường. Ngoài ra, theo quan điểm trước đó của tôi, giao dịch ngoài thị trường có xu hướng thiên vị bên mua. Tôi không thấy IMF có ý định đặt mình vào vị trí bị chỉ trích do sự quản lý tài chính yếu kém - một cáo buộc gần như chắc chắn sẽ dành cho tổ chức này nếu giá vàng tăng đột ngột sau một vụ giao dịch.

Đề xuất trên vẫn phải được các thành viên của IMF bỏ phiếu thông qua. Theo hiến chương của tổ chức này, bất kỳ việc bán vàng nào sẽ cần phải có sự đồng thuận của 85% thành viên; qua số phiếu được đánh giá theo mức độ đóng góp của các nhà tài trợ ban đầu, Mỹ có 17% số phiếu. Nói cách khác, điều này khiến lá phiếu của Mỹ có hiệu lực nếu họ quyết định cản trở tiến trình này.

Dường như chủ tịch ủy ban trên (Andrew Crokett, cựu thành viên của BIS và là Chủ tịch của JP Morgan Chase International) và “người xuất chúng” Alan Greenspan đều hiểu rõ khả năng rằng đề nghị này sẽ được Quốc hội Mỹ thông qua. Quả thực, gần như đúng một năm sau đó, vào tháng 2/2008, Thứ trưởng tài chính Mỹ phụ trách các vấn đề quốc tế David McCormick tuyên bố ông ủng hộ việc bán vàng và ông tin rằng đề nghị trên sẽ được Quốc hội Mỹ thông qua.

Vào tháng 4/2008, Dominique Strauss-Kahn, giám đốc điều hành IMF, đã có thể tuyên bố rằng tổ chức này đồng ý bán 403,2 tấn vàng, vốn sẽ được sử dụng để tạo quỹ hỗ trợ: “Chúng tôi đã phải đưa ra những lựa chọn khó khăn nhưng cần thiết nhằm cắt đà sụt giảm thu nhập dự kiến và đặt nền tài chính của quỹ trên một cơ sở bền vững và cuối cùng, điều này sẽ giúp cho quỹ tập trung, hiệu quả, mang lại lợi nhuận hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của các thành viên” (xem http://www.imf.org/external/np/sec/pr/2008/pr0874.htm ).

Việc bán vàng ra vẫn cần phải được tất cả 185 thành viên của IMF thông qua song dường như nó sẽ được thông qua, khi tất cả các bên đều tỏ ra thiện chí về vấn đề này. Giả sử điều đó được xúc tiến, trước hết, lợi nhuận thu được sẽ dành cho trái phiếu chính phủ, sau đó là trái phiếu công ty vào một thời gian chưa xác định trong tương lai và thậm chí là các vốn cổ phần.

Trên trang web của mình, IMF nói rằng “chính sách về vàng của họ bị chi phối bởi những nguyên tắc sau:
Là một tài sản bị đánh giá thấp do IMF nắm giữ, vàng tạo ra sức mạnh cơ bản cho bảng cân đối kế toán. Bất kỳ việc huy động vàng nào của IMF nên tránh làm suy yếu vị trí tài chính tổng thể của tổ chức này.
IMF nên tiếp tục nắm giữ một số lượng vàng tương đối lớn trong số các tài sản của mình, không chỉ vì lý do thận trọng mà còn để đối phó với những bất trắc không đoán trước được.
IMF có trách nhiệm chung là tránh gây gián đoạn đối với sự hoạt động của thị trường vàng.
Lợi nhuận thu được từ các thương vụ bán vàng nên được sử dụng bất cứ khi nào khả dĩ để tạo một quỹ đầu tư mà ở đó chỉ có thu nhập được sử dụng”.

Để biết thêm thông tin chi tiết, tham khảo tại website http://www.imf.org/external/np/exr/facts/gold.htm.

Trong khi IMF, ở chừng mực nào đó, là trường hợp đặc biệt - không được phép cho vay vàng, điều này là minh họa một cách tài tình cho vấn đề khó khăn đối với nhiều cơ quan có thể cho vay vàng. Thị trường đơn giản là quá nhỏ, và lợi nhuận cũng cực kỳ thấp khi vay cả quỹ dự trữ của một quốc gia, và vì thế có khoảng cách lớn giữa quy mô danh nghĩa của các quỹ ngoại hối của một ngân hàng trung ương và các quy mô thực tế có thể thu lợi nhuận. Vàng về mặt truyền thống là một quỹ dự trữ “mua và nắm giữ”, song đối với nhiều tổ chức, họ ngày càng được đánh giá cao vì sự quản lý hiệu quả đối với số lượng vàng nắm giữ của mình; vì thế, quyết định sáng suốt là giảm số vàng dự trữ và mua một tài sản sinh lời. Điều này chắc chắn gây tranh cãi về việc nắm giữ/mua một số lượng vàng lớn (xét về mặt tỷ lệ).
Tôi biết một số trường hợp các ngân hàng trung ương có trách nhiệm quản lý các quỹ dự trữ của mình - lợi nhuận của quỹ trước hết được sử dụng để duy trì hoạt động của cơ quan (bao gồm cả việc trả lương) mà phần còn dư phải trả lại cho chính phủ - song do tình trạng tỷ lệ vàng được nắm giữ cao nhưng lợi nhuận lại thấp nên các ngân hàng giờ đây không thể trang trải các chi phí vận hành của mình. Kết quả là ngân hàng trung ương phải cầu viện bộ tài chính cấp nguồn quỹ để duy trì hoạt động. Về mặt chính trị, điều này không phổ biến lắm và nó nằm đằng sau quyết định bán ra của một số bên bán.

Liên quan



0 comments Blogger 0 Facebook

Post a Comment

 

 
AKHSP ©Email: tailieuchogiaovien@gmail.com. All Rights Reserved. Powered by >How to best
Link:|khoahocsupham||SKKN|Tử vi|Science
Top
//